Là lực lượng nền tảng của văn đàn từ đầu thế kỷ 20, những cây bút trẻ đã tạo nên những trang viết bất hủ cho văn học Việt Nam. 37 tham luận chính thức và hàng chục ý kiến thảo luận tại hội thảo văn học toàn quốc vừa khép lại đã đặt ra một câu hỏi lớn : liệu thế hệ nhà văn trẻ hôm nay có thể tạo nên một cuộc cách mạng văn chương như những tiền bối của họ ?

Dấu Ấn Sức Trẻ Trong Lịch Sử Văn Chương Dân Tộc
Nhìn lại chặng đường phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, nhà nghiên cứu Phong Lê không khỏi xúc động trước những trang viết đầy sức sống của thế hệ nhà văn trẻ đầu thế kỷ 20. Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng hay những Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài đã bắt đầu sáng tác từ khi chỉ 17-18 tuổi, nhưng những tác phẩm của họ vẫn âm vang đến tận hôm nay. Trong lĩnh vực thơ ca, những cái tên như Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên cũng đã để lại dấu ấn không thể phai mờ, trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các thế hệ nghệ sĩ sau này.
Qua các giai đoạn lịch sử tiếp theo, từ 30 năm kháng chiến đến thời kỳ Đổi mới, văn học Việt Nam vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng bởi nguồn lực của những cây bút trẻ đầy nhiệt huyết. Họ cầm bút giữa bom đạn chiến tranh, họ viết lên những khát vọng về độc lập, tự do và hạnh phúc của cả dân tộc. Những trang viết ấy không chỉ phản ánh hiện thực mà còn thắp lên ngọn lửa niềm tin trong trái tim hàng triệu người.
Thách Thức Của Sự Hội Tụ Trong Thời Đại Mới
Tuy nhiên, khi đặt vào bối cảnh gần 40 năm qua, kể từ khi đất nước bước vào thời kỳ Đổi mới và hội nhập quốc tế, bức tranh văn học Việt Nam lại có những nét khác biệt đáng lo ngại. Giáo sư Phong Lê nhận định rằng dù vẫn có sự xuất hiện đều đặn của những tên tuổi mới, thậm chí càng về sau càng nhiều, nhưng họ vẫn chưa hội tụ thành một đội ngũ mạnh mẽ như những thế hệ đi trước. Ông ví đây như “một cuộc lên đường mới của dân tộc để rút ngắn những so le lịch sử giữa dân tộc và thời đại”, nhưng lại thiếu đi sức liên kết.
Để tạo nên một bước ngoặt mang tính cách mạng trong văn chương, Giáo sư Phong Lê cho rằng thế hệ trẻ hôm nay cần có tâm thế hoàn toàn mới. Họ vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, vừa là chủ thể của hoàn cảnh, với bản lĩnh cá nhân và sức mạnh tập thể, mới có thể đưa đời sống văn học vào một giai đoạn phát triển vượt bậc như từng xảy ra trong giai đoạn 1930-1945. Quy mô và tầm vóc của cuộc cách mạng văn học được kỳ vọng vào đầu thế kỷ 21 này phải lớn hơn gấp nhiều lần, sau 50 năm đất nước sống trong hòa bình, Đổi mới và hội nhập.
Khoảng Cách Giữa Văn Chương Và Hiện Thực Đời Sống
Một trong những vấn đề được các đại biểu tại hội thảo đặc biệt quan tâm chính là sự phân hóa cao độ trong xã hội kể từ sau Đổi mới, điều này đã tác động sâu sắc đến nhận thức sáng tạo của các nhà văn. Nhiều tác phẩm hiện nay có xu hướng đi sâu vào thế giới nội tâm cá nhân, suy tư về số phận đơn lẻ mà chưa kịp nhận diện được thân phận con người ở tầm phổ quát rộng lớn hơn. Những định kiến về ranh giới giữa mới và cũ trong thủ pháp sáng tác đôi khi khiến văn chương xa rời hiện thực đời sống, khiến độc giả cảm thấy thiếu đi sự kết nối.
Vấn đề trách nhiệm xã hội của nhà văn trước những diễn biến sôi động của thời cuộc đã được mổ xẻ và phân tích đa chiều tại hội thảo. Nhiều ý kiến cho rằng nhà văn không thể đứng ngoài cuộc, mà phải là người quan sát tinh tế, người ghi chép trung thực và cũng là người đặt ra những câu hỏi sâu sắc về con người và xã hội.
Sứ Mệnh Hàn Gắn Vết Thương Lịch Sử
Sau ngày đất nước thống nhất, văn chương Việt Nam đã đảm nhận một vai trò quan trọng trong việc hóa giải những hệ lụy dai dẳng từ chiến tranh. Những giằng xé, chia cắt trong thế giới tâm hồn của nhiều thế hệ người Việt Nam, dù ở trong nước hay hải ngoại, đã dần được hàn gắn thông qua văn chương và văn hóa. Đây chính là sức mạnh mềm mà không lĩnh vực nào khác có thể thay thế được.
Những câu chuyện về số phận người Việt, dù được viết bằng ngôn ngữ nào, vẫn mang đậm bóng dáng văn hóa Việt Nam và mùi vị quê hương. Nhiều tác phẩm của nhà văn gốc Việt sinh sống ở nước ngoài đã được văn đàn thế giới đón nhận, sau đó được dịch và xuất bản trong nước, tạo nên cầu nối văn hóa đầy ý nghĩa. Các tham luận tại hội thảo đã đi sâu vào nghiên cứu về sự tiếp nối thế hệ, những khác biệt thế hệ và sự phong phú trong nội dung sáng tác của các nhà văn này.
Hai Góc Nhìn Về Thành Tựu Văn Học 50 Năm
Tại phiên hội thảo ở Hà Nội, nhà văn Nguyễn Bình Phương, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, đã tổng hợp hai quan điểm lớn được các đại biểu đưa ra. Góc nhìn lạc quan cho rằng văn học Việt Nam 50 năm qua đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình, khắc họa được tình thế dân tộc và thân phận con người Việt Nam giữa dòng chảy biến động của lịch sử. Văn chương đã mổ xẻ những vấn đề xã hội nóng bỏng và góp phần khâu vá những vết thương hậu chiến.
Tuy nhiên, góc nhìn nghiêm khắc hơn lại cho rằng văn học Việt Nam vẫn còn lảng tránh nhiều sự thật, nhiều góc khuất mà đời sống con người phải đối mặt. Văn chương chưa kịp thời rung lên hồi chuông cảnh báo về sự rạn nứt của xã hội và con người ở các phương diện đạo đức, lý tưởng và phẩm giá. Ông Phương nhấn mạnh rằng để văn chương thực sự có giá trị, nó phải được bắt nguồn từ hiện thực đời sống với tất cả những gì hữu hình lẫn vô hình, từ sự kiện đến ý nghĩ, cảm xúc thầm kín của con người.
“Khi đời sống ấy biến chuyển, sang trang, văn học cũng phải biến chuyển và sang trang”, ông Phương khẳng định. Đây chính là thông điệp gửi gắm đến thế hệ nhà văn trẻ : hãy có đủ can đảm để đổi mới, để viết về những gì đang diễn ra thực sự trong cuộc sống, chứ không phải chỉ viết về những gì an toàn hoặc quen thuộc.
Kỳ vọng về một thế hệ nhà văn trẻ với tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và khát vọng cống hiến cho văn chương dân tộc đang lan tỏa trong cộng đồng văn học Việt Nam. Niềm tin vào sự chuyển giao thế hệ không chỉ là hy vọng mà còn là trách nhiệm của cả hệ thống văn học, từ các tổ chức, nhà nghiên cứu đến chính những nhà văn đi trước.